Một số xu hướng mới nổi bật của tình hình thế giới qua đại dịch Covid-19 cùng những tác động đối với mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tới

Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Antonio Guterres, tác động của đại dịch Covid-19 đối với thế giới hiện nay là thách thức lớn nhất mà thế giới phải đối mặt kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Dưới góc độ này, bài viết tập trung phân tích, đánh giá và dự báo một số xu hướng mới nổi bật của tình hình thế giới qua đại dịch Covid-19 và những tác động đối với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trong thời gian tới.




Trước mắt, thế giới có 3 kịch bản về đại dịch:

Kịch bản lạc quan nhất: Đến cuối năm 2020, đại dịch được kiểm soát hiệu quả; các hoạt động trên thế giới đều được khôi phục, theo đó ảnh hưởng của đại dịch là rất lớn, song sẽ được khắc phục từng bước.

Kịch bản trung bình: Đại dịch cơ bản được khống chế nhưng vẫn tiếp tục lây lan ở mức độ thấp hơn cho đến khi tìm được thuốc đặc trị hoặc vắc-xin. Theo hướng này, các nước vừa phải phòng chống dịch, vừa khôi phục các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động dịch vụ xã hội; các hoạt động ít cấp thiết hơn và giao lưu xã hội có thể chỉ duy trì ở mức tối thiểu có thể kiểm soát được; nền kinh tế của hầu hết các nước bước vào giai đoạn suy thoái kéo dài.

Kịch bản tồi tệ nhất: Đại dịch tiếp tục lây lan tốc độ khủng khiếp như hiện nay trong một thời gian dài, theo đó thế giới sẽ rơi vào tình trạng bất động kéo dài, kinh tế suy thoái, khủng hoảng trầm trọng kéo theo hàng loạt hệ lụy về chính trị, xã hội, môi trường,…trong từng quốc gia và trên toàn thế giới.

Đến nay, nhiều tổ chức quốc tế đang sử dụng kịch bản thứ 2 trong dự báo các tác động của đại dịch. Nhiều quốc gia cũng đã chuẩn bị các phương án để có thể chủ động đối phó với các kịch bản của đại dịch Covid trong tương lai.


Một số xu hướng nổi bật của thế giới qua đại dịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 xuất hiện vào đúng thời điểm đặc biệt khó khăn của nền kinh tế toàn cầu, theo thống kê, năm 2019, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ đạt mức 2,9%, là mức thấp nhất trong thập kỷ vừa qua, do tác động của nhiều nhân tố nhất là bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.

Trong báo cáo công bố ngày 24/6/2020, quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã báo động đại dịch Covid-19 đã tác động đến tất cả mọi khu vực địa lý trên toàn cầu, khiến GDP của thế giới thấp hơn, giảm 4,9% so với năm 2019, thấp hơn rất nhiều so với mức -1,7% của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008; đại dịch Covid-19 đã cuốn trôi 12.000 tỷ USD của cải trên thế giới. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) còn dự báo nếu Covid-19 bùng phát lần thứ 2, GDP toàn cầu có thể giảm -7,6%. (2)

Kinh tế thế giới theo dự báo sẽ khôi phục chậm, kéo dài và không đồng đều ở các khu vực bởi khủng hoảng suy thoái kinh tế sâu nặng diễn ra trong bối cảnh nhiều nhân tố gây khó khăn bất ổn cùng tác động như cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn gia tăng, biến động giá dầu mỏ quốc tế, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các đầu tàu kinh tế như nhóm các nước G7, G20 đều gặp khó khăn…Như vậy, khả năng kinh tế thế giới phục hồi theo hình chữ V là khó có thể xảy ra, nhiều khả năng chỉ có thể phục hồi theo hình chữ U, tức là từ từ đi lên, ngay cả phương án này cũng không dễ dàng, bởi các trụ cột kinh tế thế giới đều gặp khó khăn.

Theo báo cáo đánh giá sơ bộ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do dịch Covid-19 gây ra có thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu, so với số lượng thất nghiệp sẵn có là 188 triệu trong năm 2019. (3)

Đại dịch đã gây ra những hậu quả nặng nề làm phức tạp thêm các vấn đề chính trị - xã hội của từng quốc gia cũng như những vấn đề ở phạm vi toàn cầu.

Đại dịch Covid -19 nổ ra thúc đẩy các nước phát triển, điều chỉnh mạnh hơn việc dịch chuyển các chuỗi cung ứng, đồng thời nâng cao năng lực tự chủ đối với các mặt hàng thiết yếu, có tính chiến lược cao và chú trọng hơn đến việc khai thác tối đa thị trường nội địa. Sắp tới, các quốc gia sẽ tìm cách giảm thiểu sự phụ thuộc vào một thị trường, làm thay đổi thương mại toàn cầu.

Trong bối cảnh mới, các nước điều chỉnh cách tiếp cận mới đối với tiến trình toàn cầu hóa với các biện pháp hội nhập nhằm hạn chế rủi ro, do sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Vấn đề biên giới và chủ quyền sẽ được chú trọng hơn trong quan hệ kinh tế, cũng như vấn đề bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Xu hướng tiêu dùng, thương mại và xu thế phát triển sẽ thay đổi. Xuất hiện các ngành nghề kinh doanh trực tuyến mới dựa trên kinh tế số, theo nguyên tắc từ xa, hạn chế tiếp xúc. Đây cũng là một phần thúc đẩy cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư phát triển hơn.

Bên cạnh đó, còn có sự thay đổi nhận thức về quản trị quốc gia, đẩy nhanh định hình lại mô hình quản trị toàn cầu,  xu hướng chuyển dịch quyền lực, chính sách và động thái mới của các nước lớn (4) cùng những vấn đề nổi lên, an ninh phi truyền thống (môi trường, sinh thái, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh mạng,…) diễn biến phức tạp.


Đánh giá tác động của tình hình thế giới đối với mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trong thời gian tới

Với nền kinh tế có độ mở cao vào loại hàng đầu thế giới và đang hội nhập quốc tế sâu rộng (Việt Nam đã ký 12 Hiệp định tự do thế hệ mới FTA với các đối tác và tổ chức quốc tế), Việt Nam không thể không chịu tác động từ những gì diễn ra trong nền kinh tế toàn cầu.

Tình hình thế giới và khu vực tạo ra tác động thuận, thời cơ đồng thời cũng nảy sinh những tác động không thuận, khó khăn đối với Việt Nam trong thời gian tới.

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, nhưng Việt Nam vẫn giữ được nền tảng chính trị và môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Nhân tố này kết hợp với sự phát triển quan hệ của Việt Nam với các đối tác chiến lược, quan hệ song phương và đa phương rộng mở, những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục giúp Việt Nam là điểm sáng hấp dẫn nhiều mặt đối với các đối tác, qua đó giảm thiểu, hóa giải các mặt đối tượng. Khả năng xử lý khủng hoảng Covid-19 thành công vừa qua làm tăng vị thế quốc tế và hình ảnh của Việt Nam là một đối tác tin cậy, điểm đến an toàn trong những năm tới.

Tình hình quốc tế tác động thuận đối với Việt Nam trên các góc độ: (i) Gia tăng vai trò vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; (ii) Tạo cơ hội thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ chiến lược giữa Việt Nam với các nước lớn lên tầm cao mới; (iii) Tăng vị thế của Việt Nam trong việc trở thành đầu mối của các nỗ lực hợp tác và liên kết kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu mới.

Nhờ chống dịch thành công, nước ta có không ít lợi thế trong việc phục hồi kinh tế. Một trong những cơ hội mới đối với ta là xu hướng chuyển dịch các cơ sở sản xuất sang Đông Nam Á, trong đó Việt Nam được coi là một trong những điểm đến ưu tiên.

Bên cạnh thời cơ, Việt Nam cũng gặp thách thức to lớn, xét từ góc độ phục vụ các mục tiêu phát triển sẽ gặp khó khăn hơn do mục tiêu tăng trưởng 7% giai đoạn 2021 - 2025 sẽ không dễ thực hiện trong bối cảnh môi trường phát triển có xu hướng xấu đi. Việt Nam phải chấp nhận và chuẩn bị nguồn lực, biện pháp ứng phó với các tình huống bất định mới sẽ ngày càng nhiều; phải ứng phó với môi trường địa chiến lược nảy sinh, những phức tạp ngoài tầm kiểm soát. Nhiều thách thức như Biển Đông, an ninh nguồn nước sông Mê Kông chưa có giải pháp căn bản, lâu dài và phụ thuộc vào nhiều yếu tố.


Tình hình dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia cũng có tác động gây khó khăn cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước. Các biện pháp giãn cách xã hội, đóng cửa biên giới sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với các đối tác chính trong thời gian tới, đặc biệt là những nước đang chịu tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19 như Mỹ, châu Âu.

Tình hình thế giới, cạnh tranh các nước lớn nhất là quan hệ Mỹ - Trung đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho an ninh, ổn định và phát triển của khu vực Đông Nam Á cũng như lựa chọn chính sách của từng quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Vì lợi ích chiến lược, các nước lớn sẽ gia tăng can dự vào khu vực Biển Đông, gây ra thách thức đối với an ninh, hợp tác và phát triển của Đông Nam Á, trong đó Việt Nam sẽ chịu tác động nhiều của quá trình trên.

Ở trong nước, bên cạnh thuận lợi, Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức nghiêm trọng như: Trong khi thế giới đang tiến vào Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì Việt Nam vẫn chủ yếu ở giai đoạn hai, tức thực hiện dây chuyền gia công, lắp ráp. Theo thống kê, hơn 95% doanh nghiệp ở Việt Nam thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh, trình độ khoa học công nghệ, nhất là chất lượng nguồn nhân lực còn rất hạn chế, còn thấp. Việc thực hiện các đột phá chiến lược về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực và thể chế mặc dù được chú trọng, song kết quả còn hạn chế. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, mức độ giải ngân vốn đầu tư công, được xác định là nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng GDP nền kinh tế, còn rất chậm. Theo thống kê, 6 tháng đầu năm 2020, các Bộ ngành địa phương mới giải ngân được gần 35% tổng vốn đầu tư công, như vậy 6 tháng cuối năm cần phải thực hiện giải ngân tiếp 65%, để đảm bảo giải ngân 100% tổng vốn đầu tư công. Chính phủ xác định để duy trì tăng trưởng, phải trông vào “cỗ xe tam mã”: Xuất khẩu, tiêu dùng nội địa và thúc đẩy đầu tư công. Giải ngân vốn đầu tư công chính là chìa khóa cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. (5)

Nguy cơ tụt hậu xa hơn về phát triển kinh tế còn đang hiện hữu so với các nước trong khu vực ASEAN và thế giới, những vấn đề xã hội, sự phân hóa giàu nghèo, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng nặng nề, diễn biến phức tạp.

Theo Tổng cục thống kê, mức tăng trưởng GDP nửa đầu năm 2020 của Việt Nam chỉ đạt 1,81% so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý II tăng trưởng 0,36%, đây là mức thấp nhất kể từ năm 1991 đến nay. Điều này được thừa nhận là thách thức cho mục tiêu tăng trưởng cả năm là 6,8%. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng 6,8%/năm 2020, hai quý cuối năm phải tăng trưởng trên 10%/năm, đây là điều rất khó trong bối cảnh tác động của dịch bệnh Covid-19, diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, mức tăng trưởng dương này của nước ta cũng là khá cao so với các nước trong khu vực và thế giới.


Tại Hội nghị giữa Thủ tướng chính phủ với doanh nghiệp vừa qua (Ngày 09/5/2020), Thủ tướng khẳng định: “Giờ là lúc lò xo bị nèn lại sẵn sàng để bung ra, cần tập trung hơn nữa để khởi động nền kinh tế, phấn đấu tăng trưởng GDP năm 2020 trên 5%, không thấp như IMF dự báo chỉ 2,7%. Doanh nghiệp Việt Nam cần đóng góp vào phát triển, kinh tế sau dịch phải là hình chữ V, chứ không phải chữ U, càng không phải chữ W”. Chính phủ nhấn mạnh về trung và dài hạn, cần đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, tổ chức lại và phục hồi, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, bù đắp giảm thiểu các thiệt hại. (6)

Để thực hiện mục tiêu này, trong điều kiện bình thường mới được xác lập vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, cần chú trọng một số giải pháp: Về tầm vĩ mô, mô hình kinh tế  của Việt Nam trong tương lai phải là nền kinh tế có năng lực phản ứng nhanh, chống chọi được với các cú sốc và linh hoạt thích ứng với các biến động bên trong và bên ngoài nền kinh tế. Muốn đảm bảo các yêu cầu trên cần hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng toàn diện, cần đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh môi trường, an ninh xã hội, đây sẽ là những yếu tố quan trọng cần xem xét khi xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới; Vận dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện chuyển đổi kinh tế số để tạo ra luật chơi mới và yêu cầu các doanh nghiệp phải có đổi mới sáng tạo, thích ứng nhanh nếu không muốn bị bỏ lại phía sau.

Ngoài ra, cần tăng cường công tác nghiên cứu dự báo. Hiện nay, nước ta đang xây dựng và chuẩn bị thông qua các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội chung và dài hạn 5 năm 2021 - 2025 và 10 năm với tầm nhìn đến năm 2030, 2045. Điều gì sẽ đón đợi trong 5, 10 hay 25 năm tới là điều cực kỳ khó đoán định. Khi soạn thảo chiến lược 2001 – 2010, có ai nghĩ đến cuộc khủng hoảng trầm trọng bùng phát năm 2008. Khi làm kế hoạch 10 năm 2011 – 2020, không ai hình dung nổi đại dịch Covid-19 toàn cầu bùng phát vào năm chót, do vậy nhiều chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của chiến lược 10 năm không đạt được như mong muốn. Thực tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải tính toán các phương án trung và dài hạn hết sức cơ động, linh hoạt, do vậy phải tăng cường công tác nghiên cứu dự báo.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần xem xét hướng tới xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Theo hướng này, cần tăng cường nội lực đất nước yêu cầu chú trọng thị trường nội địa, phát triển công nghiệp phụ trợ, đa dạng hóa, đa phương hóa thị trường vào chuỗi cung ứng quốc tế.

Trong bối cảnh quốc tế mới cần tận dụng cơ hội mới đối với nước ta là xu hướng chuyển dịch các cơ sở sản xuất sang Đông Nam Á, chuẩn bị các điều kiện cần thiết nhất là hạ tầng, nguồn nhân lực, mặt bằng, nhất là thể chế để chủ động đón đầu dòng chuyển dịch vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia gắn với chuỗi giá trị và chuyển giao công nghệ tiên tiến.

PGS. TSKH Trần Nguyễn Tuyên

Hội đồng Lý luận Trung ương

 

 

Chú thích:

(1) Báo Thế giới và Việt Nam số 31 từ ngày 30/07 đến 05/08/2020, trang 3.

(2) + (3) Theo báo Thế giới và Việt Nam số 28 ngày 9-15/7/2020, trang 5.

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 2016, trang 70, 71.

(5) Báo Đầu tư ngày 10/08/2020, số 96 (3703).

(6) Báo Nhân dân điện tử ngày 11/5/2020.